Mối quan hệ giữa Đức Mẹ và Núi Cát Minh, sau này là Dòng Cát Minh có tính địa lý và Kinh Thánh. Núi Cát Minh nằm cách khoảng hơn 30 km từ Nazareth nhìn ra Biển Địa Trung Hải. Kinh Thánh đã chép, tiên tri Êlia đã cầu nguyện với Thiên Chúa trên Núi này để có mưa trong cơn hạn hán và Thiên Chúa đã nhận lời cầu nguyện và đã có mưa và đã mang lại cuộc sống mới dồi dào. Những đám mây bay lên từ biển khiến mưa sau đó trở thành một biểu tượng cho Đức Maria là Ngôi Sao của Biển Khơi. Núi Cát Minh cuối cùng đã thu hút các ẩn sĩ muốn sống đời sống ẩn tu, và từ thế kỷ 12 Núi Cát Minh trở thành một nơi cư ngụ cho nhiều người. Sau đó, các ẩn sĩ quy tụ và lập thành dòng Núi Cát Minh và tận hiến cho Ðức Mẹ qua đời sống chiêm niệm.
Đức Mẹ Núi Cát Minh hay còn gọi là Đức Mẹ núi Camêlô là danh hiệu dành cho Đức Trinh Nữ Maria trong vai trò là người bảo trợ Dòng Cát Minh. Các Hiến pháp của Dòng vào thế kỷ thứ mười ba đã ghi “Các ẩn sĩ đã được thúc giục bởi một tình yêu mến đặc biệt đối với Đức Trinh Nữ Maria Rất Thánh, và họ bắt đầu tỏ lòng sùng kính lớn lao đối với Mẹ. Vì vậy, họ xây dựng một nhà nguyện nhỏ để tôn vinh Đức Mẹ. Ở đó, họ tập trung thường xuyên trong ngày để diễn tả tâm tình của họ đối với Đức Trinh Nữ Maria trong các buổi cầu nguyện, lễ nghi và ca tụng. Do đó, họ được gọi bởi cái tên là anh em dòng Đức Mẹ Núi Cát Minh”.
Thời các cuộc Thập Tự Chinh ở Đất Thánh, có các nhà ẩn sĩ định cư nhiều nơi trên lãnh thổ Palestine. Một số trong nhóm chọn “sống theo gương ngôn sứ Êlia, một người thánh thiện và yêu mến sự cô tịch”, đã chọn lối sống thanh tịnh trên núi Cát Minh, gần một nguồn suối gọi là Suối Êlia. Trong những hang nhỏ, tương tự như các lỗ của tổ ong, họ sống như những con ong của Thiên Chúa, thâu lượm mật ngọt thiêng liêng, nguồn an vui tâm linh.
Khoảng năm 1206 đến 1214, Thánh Anbêtô, Thượng Phụ thành Giêrusalem đã tập trung những vị ẩn sĩ này lại thành một cộng đoàn nhỏ theo yêu cầu của họ. Dựa trên lối sống hiện tại của họ, người đã viết cho họ một qui tắc sống, diễn tả lý tưởng đời sống ẩn tu “propositum” và phản ảnh tinh thần “hành hương về Đất Thánh” và tinh thần của cộng đoàn tiên khởi Giêrusalem. Khi vùng Thánh Địa bị rơi vào tay quân Saraxens, các ẩn sĩ đã di chuyển về Châu Âu và được xem là những khất sĩ như các tu sĩ Dòng Phanxicô, Đa Minh và Âu Tinh. Tại Anh Quốc và Ái Nhĩ Lan, do mang áo choàng màu trắng và Áo Đức Bà, họ được gọi cách thân thương là những tu sĩ Dòng Áo Trắng hay Dòng Áo Đức Bà.
Năm 1247, bản Luật Dòng được Đức Giáo Hoàng Innocent IV phê chuẩn và bổ sung cho phù hợp với điều kiện sống ở Tây Phương. Huynh đoàn Cát Minh đặt mình vào đời sống phục vụ Giáo Hội, theo lý tưởng chung của các Dòng Khất Thực, và được biết đến như Dòng Huynh Đệ Tông Đồ. Tuy nhiên, họ vẫn giữ được các đặc điểm đoàn sủng nguyên thủy của mình.
Thời Trung Cổ, họ nổi tiếng khắp Châu Âu và đã sản sinh nhiều vị Thánh, thần học gia, nghệ sĩ, thi sĩ, và chính trị gia. Đầu thế kỷ XV, các Đan viện nữ cũng được thành lập, và được Chân phước Gioan Soreth chuẩn nhận vào năm 1415. Trong giai đoạn cải tổ, Thánh Têrêxa Aliva đã mong muốn Dòng quay về với bản quy luật của Thánh Anbêtô. Thánh nữ đã thành lập nhiều Đan viện cho các nữ tu, và nhờ sự cộng tác tích cực của Thánh Gioan Thánh Giá, ngài còn lập nhiều Đan viện nam cho những ai muốn sống cuộc sống như các vị ẩn sĩ tiên khởi ở núi Cát Minh. Hai vị thần nhiệm người Tây Ban Nha thời danh này, qua đời sống và bút tích, đã phát triển di sản mà các ngài đã lãnh nhận từ những vị tu sĩ Cát Minh thời Trung Cổ, và đã diễn tả được cái tinh túy của linh đạo Cát Minh. Từ thế kỷ XVI đến nay, các tu sĩ nam nữ Cát Minh sống một trong hai hệ Dòng, hệ Cát Minh gốc (O.Carm.) và hệ Cát Minh về nguồn (O.C.D.). Một vài nét đặc trưng trong di sản Cát Minh.
Thứ nhất, tên Dòng gắn bó với một địa danh ở Đất Thánh là Núi Cát Minh chứ không bắt nguồn từ một nhân vật. Các tu sĩ nam tiên khởi đã cùng nhau chọn tước hiệu chính thức của mình là Dòng Anh Em Đức Trinh Nữ Maria Diễm Phúc Núi Cát Minh. Họ gọi mình là anh em của Đức Maria vì Đức Maria thân thương gần gũi như một người chị. Chị Maria chăm sóc các em, dẫn các em đến gặp Chúa, dạy các em lắng nghe Lời Chúa, suy gẫm trong lòng và thực hành ý của Người.
Thứ hai, một trong những nét đoàn sủng nguyên thủy được kế thừa cho đến tận hôm nay là ‘tinh thần sa mạc.’ Ban đầu, các anh em tiên khởi sống trong môi trường chủ yếu là hoang mạc, nên nét linh đạo tương ứng là cô tịch hoang mạc. Làm việc và cầu nguyện lúc ấy được chìm vào trong thiên nhiên yên tĩnh vùng Palestine. Khi phải từ giã vùng đất này, họ đem nét cô tịch sa mạc ấy theo hành trình về Châu Âu. Cuộc sống Châu Âu dĩ nhiên có hoàn cảnh riêng, khác với vùng đất ẩn tu Palestine hôm nào. Ngoại cảnh thay đổi nhưng tinh thần vẫn Cát Minh. Giờ đây giữa chốn phố thị huyên náo nhưng nội tâm vẫn bình lặng, giữa cảnh ồn ào náo nhiệt nhưng bên trong vẫn luôn có một góc cô tịch đặc biệt giữ riêng cho việc gặp gỡ Đấng Tri Kỷ.
Thứ ba, Dòng được ra đời từ một nhóm anh em quy tụ nhau trên Núi Cát Minh chứ không phải do một đấng sáng lập như trường hợp của đa số các Hội Dòng khác. Điều này tạo cho Cát Minh một nét đặc trưng có ảnh hưởng cụ thể lên việc thi hành sứ vụ tông đồ. Các Hội Dòng do một Đấng sáng lập thường quan tâm một hay một vài loại hình mục vụ giới hạn nhất định. Trong khi đó, mục vụ Cát Minh có tính uyển chuyển để thích ứng với các nhu cầu địa phương. Khi đến một Giáo phận, các anh em Cát Minh sẽ cùng làm việc với đấng bản quyền sở tại để tìm hiểu các nhu cầu mục vụ của Giáo phận và sẽ dấn thân theo khả năng tốt nhất của mình. Bởi thế, anh em Cát Minh có mặt trong nhiều môi trường mục vụ khác nhau như giáo xứ, nhà thương, trung tâm tĩnh tâm, linh hướng, trường học, nhà tù, các điểm truyền giáo… Đặc điểm này một mặt mở ra khả năng tiếp xúc với nhiều loại hình phục vụ tha nhân, mặt khác phong phú hóa kinh nghiệm của chính anh em.
Gia đình Cát Minh ngày nay rất đông đảo, ngoài các nam tu sĩ (Giám mục, Linh mục, Trợ sĩ và Ẩn sĩ) và các nữ tu Dòng Kín, còn phải kể đến các nữ tu hoạt động, các Tu hội đời, Huynh đoàn Áo Đức Bà và Dòng Ba Cát Minh. Dòng Cát Minh nam hiện có 25 Tỉnh Dòng, 4 tỉnh miền và nhiều phụ tỉnh hiện diện trên hơn 40 quốc gia thuộc 5 Châu lục và trong đó có Việt Nam.
Bài: Sưu tầm & Biên tập